An toàn sinh học, một khía cạnh không thể thiếu của trong việc quản lý sức khỏe, một phương pháp luôn phát triển mà nên tạo nền tảng cho việc quản lý chăn nuôi. Nó nên được điều chỉnh theo từng điều kiện cụ thể của từng bước trong quy trình nuôi dưỡng và được thực hiện đều đặn mỗi ngày. Bài báo này tập trung vào bảy mục quan trọng là: các khía cạnh liên quan đến tôm, quản lý chất lượng nước, việc sử dụng thức ăn, sử dụng hệ thống, những biện pháp an toàn sinh học dành cho nhân sự tham gia vào quá trình sản xuất, nguy cơ lây nhiễm qua các trang thiết bị và rủi ro trong không khí. Những điểm chính này bao quát cả quá trình từ tôm bố mẹ cho tới sản xuất ấu trùng và cuối cùng là giai đoạn nuôi thương phẩm.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp an toàn sinh học tốt tại chỗ, một nghiên cứu đã được thức hiện bởi Intriago et al. (2023), được xem là một ví dụ thuyết phục. Nghiên cứu đã làm sáng tỏ ảnh hưởng to lớn của sự lây nhiễm khuẩn Vibrio trong các trại giống và trại nuôi. theo nghiên cứu của họ, chủng khuẩn Vibrio mang gen VpPirAB – gây ra những trường hợp tử vong ở tôm, tỷ lệ tử vong lên đến 100% những trường hợp tử vong đột ngột, đôi lúc chỉ trong vòng 2 giờ, chủ yếu ảnh hưởng tới giai đoạn đầu của ấu trùng tôm thẻ chân trắng.
Với mức độ nghiêm trọng của việc bùng phát dịch bệnh, bài báo này tập trung giải thích những lưu ý về an toàn sinh học chính trong chuỗi sản xuất tôm. Bắt đầu bằng những biện pháp giải quyết liên quan tới tôm bố mẹ, sau đó là những phương pháp an toàn sinh học thực tiễn trong trại giống và ương dưỡng, cuối cùng bao gồm những quy định an toàn sinh học trong suốt giai đoạn nuôi thương phẩm. Áp dụng những phương pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt trong mỗi giai đoạn là bắt buộc để bảo vệ cho sức khỏe và năng suất của trại tôm và giảm ảnh hưởng tác động của mầm bệnh do khuẩn Vibrio gây ra.
NHỮNG LƯU Ý VỀ AN TOÀN SINH HỌC TRONG NUÔI TÔM BỐ MẸ VÀ NHÂN GIỐNG.
Bắt đầu với an toàn sinh học trong giai đoạn tôm bố mẹ và trung tâm nhân giống, cần nhấn mạnh hơn về tầm quan trọng của chọn lọc di truyền trong nhân giống để chống lại những loại bệnh thường gặp. Tôm được nuôi trong những cơ sở an toàn sinh học không có mầm bệnh là tôm sạch bệnh (SPF). Tuy nhiên, những con tôm này khi được chuyển đến cơ sở không an toàn sinh học, khi tiếp xúc với mầm bệnh chúng vẫn phát triển bệnh và tử vong. Tôm bố mẹ kháng bệnh (SPR) được tạo ra để chống lại một số bệnh cụ thể. Có nghĩa là khi tiếp xúc với mầm bệnh, chúng vẫn có thể nhiễm nhưng chúng có khả năng kháng bệnh nên không dẫn tới tử vong. Giống tôm thứ ba là giống chịu được mầm bệnh cụ thể (SPT) được lai tạo ra để chịu được mầm bệnh, khi tiếp xúc với mầm bệnh, chúng có thể có hoặc không nhiễm bệnh, nhưng mức độ nhiễm bệnh và tử vong của dòng tôm này thấp hơn hẳn so với các giống tôm bình thường.
Những nguy cơ nhiễm bệnh liên quan tới thức ăn tươi cho tôm bố mẹ. Trong danh sách thức ăn tươi như : mực, giun nhiều tơ, trai, v..v.. Trong khi mực thường chỉ sử dụng thịt bên ngoài và được chế biến thành thực phẩm đông lạnh, nguy cơ mang mầm bệnh thấp, thì giun nhiều tơ được sử dụng nguyên con, nên cần chú ý tới nguy cơ nhiễm bệnh tiềm ẩn từ những nhà cung cấp không phải cơ sở sạch bệnh (các mầm bệnh do vi khuẩn và vi rút gây ra). Có những công ty cung cấp giun sạch bệnh tươi và có những công ty cung cấp giun nhiều chân đông lạnh. Hiệu suất của tôm bố mẹ giảm khi tiêu thụ giun nhiều tơ đông lạnh, giảm về số lần sinh sản trên một con cái, khả năng sinh sản, tỷ lệ trứng nở và tỷ lệ sống sót tới giai đoạn zoes, được báo cáo là điều lưu ý quan trọng cho những nhà sản xuất giun nhiều tơ tươi sống. Ở những nơi không có nguồn giun sẵn hoặc không có sự lựa chọn, thì việc giảm rủi ro an toàn sinh học liên quan tới các tác nhân gây bệnh theo chiều dọc là điều cần thiết, bằng cách giảm hoặc loại bỏ thành phần có giun nhiều tơ trong khẩu phần thức ăn của tôm bố mẹ.
Trong khâu quản lý tôm bố mẹ, một số phương pháp như cắt cuống mắt có thể gây ảnh hưởng tới khả năng mắc bệnh, sức khỏe của tôm trưởng thành, và khả năng chống chọi với dịch bệnh của chúng. Zacarias et al. (2021) đã thực hiện nghiên cứu, cho thấy rằng việc cắt cuống mắt có ảnh hưởng tới sức khỏe của thế hệ sau. Hai thí nghiệm thử thách dịch bệnh, một thử nghiệm đối với Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) và một thử nghiệm đối với virus đốm trắng, tôm thử thách từ tôm mẹ bị cắt bỏ hoặc không bị cắt bỏ. Trong cả hai thử nghiệm, thế hệ sau từ những tôm cái không bị cắt bỏ có tỷ lệ sống sót cao hơn, đặc biệt là khi được thử nghiệm với chủng khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra AHPND.
Tiếp theo là nguồn nước cung cấp cho các trung tâm nuôi tôm bố mẹ và các trại sản xuất giống, phải đảm bảo nguồn nước này được khử trùng, an toàn sinh học và có thể sử dụng ozone và tia cực tím để làm xử lý nước. Không khí được hút vào, được tiếp xúc với dòng điện tách các nguyên tử oxi, sau đó chúng tập hợp lại thành O3 hoặc ozone, và được trộn với nguồn cung cấp nước đi vào. Ozone hoạt động bằng cách oxy hóa màng tế bào, tiêu diệt mầm bệnh. Nước được xử lý bằng ozone sau đó đi qua hệ thống tia cực tím để phá hủy mọi ozone còn sót lại và bất kỳ axit hypobromous và bromamines độc hại nào được tạo ra – ánh sáng tia cực tím tạo ra các phản ứng quang hóa có thể phá vỡ hoặc thay đổi cấu trúc hóa học của các hợp chất này. . Giá trị thêm của ozone là chất thải hòa tan có thể bị oxy hóa một phần bởi ozone với các hợp chất nitơ độc hại bị oxy hóa thành NO3. Máy tách protein có thể được sử dụng để loại bỏ các hợp chất protein và các hợp chất hữu cơ khác khỏi nước. Một cách tiếp cận khác là sử dụng nước biển điện phân trong đó hypochlorite được tạo ra bằng phương pháp điện phân. Điều này có thể được sử dụng để xử lý khối lượng lớn cả nước đầu vào và nước thải. Hệ thống này cần được sử dụng kết hợp với các bộ lọc than để loại bỏ clo dư. Đối với một số mầm bệnh chính như EHP, vẫn cần nhiều nỗ lực để xác định liều tối thiểu cần thiết để đảm bảo khử trùng hiệu quả.
Một cách tiếp cận khác để đảm bảo an toàn sinh học của nước được sử dụng là sử dụng máy siêu lọc. Hiện nay có các hệ thống có thể giữ lại các hạt nhỏ tới 0,03 micron – giúp lọc vi khuẩn và bào tử EHP một cách hiệu quả. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào hệ thống nuôi thông qua đường không khí, bao gồm nguồn cung cấp không khí sủi bọt qua nước, khí từ các bể lân cận hoặc từ các luồng không khí sẵn có tại cơ sở. Để ngăn chặn điều này, cần phải lắp bộ lọc không khí vào cửa hút gió của máy thổi khí. Những bộ lọc này có thể được làm bằng nylon lưới mịn (ví dụ: lưới sinh vật phù du) hoặc các bộ lọc làm từ giấy/cellulose giống như những bộ lọc được sử dụng trong lọc không khí ô tô. Bằng cách xếp chúng thành chuỗi, khối lượng lớn không khí có thể được lọc một cách hiệu quả xuống còn 10 micron, đảm bảo hệ thống nuôi cấy vẫn được bảo vệ khỏi nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn.
Đối với các cơ sở yêu cầu mức độ an toàn sinh học cao hơn, bộ lọc không khí rất quan trọng để giảm sự lây lan của mầm bệnh trong không khí. Chúng có thể giúp ngăn ngừa sự lây truyền các bệnh truyền nhiễm bằng cách thu giữ và loại bỏ các hạt nhân nhỏ giọt, và các hạt trong không khí có thể chứa các vi sinh vật gây hại. Bộ lọc không khí dạng hạt hiệu suất cao (HEPA) trên hệ thống hút / thoát khí và được trang bị cho các bộ điều hòa không khí là một trong những bộ lọc hiệu quả nhất và có thể loại bỏ tới 99,97% các hạt nhỏ tới 0,3 micron và có thể được sử dụng ở những nơi có tiêu chuẩn chất lượng không khí nghiêm ngặt là cần thiết.
NHỮNG LƯU Ý AN TOÀN SINH HỌC TRONG GIAI ĐOẠN SẢN XUẤT GIỐNG VÀ ƯƠM GIỐNG.
Việc thiết kế các địa điểm sản xuất phải được lên kế hoạch cẩn thận để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm chéo giữa các khu vực khác nhau, cho phép quản lý và xử lý hiệu quả dòng nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc cách ly và khử trùng hiệu quả tại mỗi đơn vị sản xuất một cách thường xuyên. Để đảm bảo an toàn sinh học trang trại tốt, các quy trình phải được thiết lập để có được nguồn giống và thức ăn tôm sạch không mang mầm bệnh. Điều này liên quan đến việc thực hiện các quy trình vận hành tiêu chuẩn (SOPs) để nhận hàng mới vào cơ sở, lý tưởng nhất là có khu vực cách ly an toàn. Hơn nữa, cần thiết lập các quy trình để vệ sinh và khử trùng thường xuyên, đồng thời các biện pháp này phải được truyền đạt rõ ràng, thường xuyên được xem xét và cập nhật khi cần thiết.
Điều cần thiết là xác định các điểm kiểm soát và thực hiện các quy trình nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ các mối đe dọa sức khỏe tiềm ẩn. Phạm vi thực hành an toàn sinh học phải bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm nguồn gốc và chất lượng tôm ở từng giai đoạn sản xuất, mật độ thả giống, thức ăn và chế độ cho ăn, chuẩn bị hệ thống nước, khử trùng và quản lý tổng thể. Giám sát sức khỏe thường xuyên là rất quan trọng để theo dõi tình trạng hoạt động của trại giống, cũng như duy trì tình trạng vệ sinh của cơ sở. Ngoài ra, cần xây dựng các kế hoạch khẩn cấp và nên chuẩn bị sẵn các kế hoạch hành động trước khi có bất kỳ đợt bùng phát dịch bệnh tiềm ẩn nào. Bằng cách áp dụng các biện pháp an toàn sinh học toàn diện này, các trang trại nuôi tôm có thể tăng cường thực hành nuôi tổng thể và giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh cũng như các vấn đề liên quan đến sức khỏe khác.
Khi xem xét sâu hơn một số chiến lược an toàn sinh học được áp dụng trong trại giống, điểm quan trọng cần cân nhắc là quản lý vi sinh vật trong môi trường nuôi. Thực hiện tại chỗ cần thúc đẩy việc quản lý hệ thống để đạt được sự cân bằng giữa các chiến lược R và K. Chiến lược R là loài sống trong môi trường không ổn định, khó dự đoán và có thể trải qua quá trình sinh sản nhanh chóng để ổn định; chúng có thể là mầm bệnh cơ hội nguy hiểm. Trong khi đó, các chiến lược K là những loài sống trong môi trường ổn định – chúng thường có tốc độ tăng trưởng thấp hoặc chậm hơn và được xem vô hại. Đạt được sự cân bằng giữa hai yếu tố này sẽ xác định nguy cơ can thiệp của vi khuẩn mặc dù cần nhấn mạnh rằng điều này có thể không thể đoán trước được.
An toàn sinh học không chỉ là giảm nguy cơ mầm bệnh xâm nhập hoặc tiêu diệt vi khuẩn mà quan trọng hơn là tạo ra một hệ sinh thái vi sinh vật ổn định giúp giảm khả năng phát triển quần thể mầm bệnh. Nếu bạn tiêu diệt được toàn bộ vi khuẩn thì bạn sẽ tạo ra một môi trường mở cho các mầm bệnh khác xâm nhập vào hệ thống. Ở đây chúng ta có thể xem xét hai giả thuyết. Chiến lược đầu tiên và “tốt nhất” sẽ là tránh sự xâm nhập của bất kỳ vi khuẩn nào qua thực phẩm sống (ví dụ: luân trùng, Artemia, Moina, giun nhiều tơ, v.v.), sử dụng quy trình khử trùng hiệu quả để tiêu diệt mọi vi khuẩn. Có thể thu được môi trường nuôi cấy vô trùng và giảm nguy cơ vi khuẩn xâm nhập gần như bằng không. Việc tiêm chủng men vi sinh tiếp theo để tạo ra hệ vi sinh vật ổn định có thể hoàn thành chiến lược nhưng không phải là điều bắt buộc nếu có nguy cơ đưa vào các loài vi khuẩn không mong muốn.
Giả thuyết chiến lược thứ hai là việc quản lý vi sinh vật trong bể nuôi tảo và bể PL là phương pháp được ưu tiên hơn vì không thể nuôi cấy tảo và/PL trong môi trường mà không có các sinh vật sống khác. Liên quan đến vấn đề này, các khía cạnh quan trọng trong những môi trường này phải bao gồm quản lý nước, kiểm soát chất lượng không khí và quản lý vi sinh vật.
Một nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi Heyse et al. (2021) phát hiện ra rằng cộng đồng thực vật phù du là nhân tố quan trọng thúc đẩy hệ vi sinh vật nước nuôi. Từ nghiên cứu của họ, phân tích theo dõi nguồn cho thấy rằng mỗi nguồn được điều tra (ví dụ: tảo, Artemia, nước và thức ăn) đều chịu trách nhiệm về sự hiện diện của các đơn vị phân loại cụ thể trong hệ vi sinh vật của nước nuôi ấu trùng tôm. Dựa trên phân tích của họ, người ta đã chứng minh rằng tỷ lệ du nhập lớn nhất của các loài vi khuẩn mới có thể là do hệ vi sinh vật của tảo, tiếp theo là ở giai đoạn sau bởi
Artemia, thay nước và – ở mức độ thấp – thức ăn khô. Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của các hệ vi sinh vật ngoại vi trong việc thách thức hoặc duy trì sự cân bằng vi khuẩn tăng cường sức khỏe.
Do đó, tảo có thể có tác động lớn đến hệ vi sinh vật và vấn đề này cần được giải quyết. Cách thức sản xuất tảo, đặc biệt là ở châu Á, thường là trong các hệ thống canh tác mở, điều đó có nghĩa là chúng có nguy cơ ô nhiễm cao, khó lường và dễ biến đổi. Bằng cách chuyển việc nuôi cấy tảo vào các lò phản ứng quang sinh học hoặc lò phản ứng khép kín, nơi điều kiện nuôi cấy được kiểm soát cẩn thận, có nghĩa là tảo có thể được sản xuất trong môi trường vi sinh vật ổn định hơn, cho phép chúng được ăn thức ăn theo cách an toàn sinh học hơn, hạn chế và kiểm soát việc đưa loại vi sinh vật mới vào hệ thống tốt hơn.
Hơn nữa, sự hiện diện của vi tảo Chaetoceros calcitrans và Tetraselmis suecica nuôi cấy không có Vibrio đã được phát hiện là có tác dụng ức chế đáng kể (p<0,05) sự phát triển của V. parahaemolyticus trong quá trình đồng nuôi cấy (Soto-Rodriguez và cộng sự, 2022). Thức ăn sống đóng một vai trò quan trọng trong nhu cầu ăn của các loài được nuôi dưỡng, do giá trị dinh dưỡng đặc biệt và thành phần sinh hóa đa dạng của nó. Tính di động, kích thước và các giai đoạn phát triển khác nhau của nó làm cho nó trở thành nguồn thức ăn lý tưởng cho các trại giống để cho phép chúng tạo ra ấu trùng post (PL) chất lượng cao và khỏe mạnh. Ngoài ra, các yếu tố quan trọng để đảm bảo sản xuất an toàn bao gồm dễ sản xuất, tính sẵn có, phát triển nhanh chóng và sự hiện diện của các công nghệ mới nhằm mục đích sản xuất thực phẩm sống chất lượng cao (dinh dưỡng và vi sinh) hiệu quả hơn và dễ dự đoán hơn. Chất lượng của ấu trùng và sinh khối Artemia có thể bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của vỏ rỗng, màng nở và bào xác chưa nở vì chúng tạo thành chất nền hoàn hảo cho sự phát triển của các loài vi sinh vật không mong muốn như Vibrio.
Để cải thiện chất lượng thực phẩm sống và tạo điều kiện thuận lợi cho việc loại bỏ chất nền không mong muốn, nang Artemia được phủ các hạt sắt cụ thể (công nghệ SEP-Art) được sử dụng cùng với các thiết bị làm sạch tĩnh hoặc động, chẳng hạn như SEP-Art HandyMag , SEP-Art CysTM và SEP-Art AutoMag. Lớp vỏ được phủ đặc biệt được thu hút bởi nam châm giữ cho chúng sống sót và không bị hư hại trong hệ thống treo. Việc loại bỏ vỏ tạo ra nguồn Artemia sạch hơn về mặt dinh dưỡng để sử dụng trong các trại giống.
Trong quá trình ấp và nuôi Artemia, cũng có những sản phẩm cụ thể có thể được sử dụng để giảm số lượng Vibrio và đảm bảo chất lượng nước tốt . Việc sử dụng các sản phẩm này làm giảm và kiểm soát sự phát triển của vi khuẩn trong quá trình sản xuất thức ăn sống quan trọng mà không ảnh hưởng đến sự nở và khả năng sống sót của Artemia, tạo ra thức ăn sống có chất lượng vi khuẩn tốt (không có Vibrio) và hạn chế sự di chuyển của các loài cơ hội vào môi trường sản xuất giống tôm, giữ Vibrio ở mức rất thấp.
NHỮNG LƯU Ý AN TOÀN SINH HỌC TRONG NUÔI TÔM THƯƠNG PHẨM
Từ các thử nghiệm thử thách bệnh, hiểu biết về khả năng chịu đựng của ấu trùng có kích thước khác nhau đối với các mầm bệnh chính như Vibrio parahaemolyticus gây ra AHPND có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc quan trọng về các biện pháp canh tác có thể làm giảm tác động của bệnh. Trong một thử nghiệm nội bộ, một quần thể tôm được theo dõi trong suốt quá trình phát triển của chúng bằng các mẫu phụ được thử thách với các liều lượng vi khuẩn khác nhau để xác định liều LC50 cần thiết để tiêu diệt các giai đoạn khác nhau của PL. Có hơn 600 thử nghiệm đã được tiến hành, người ta thấy rằng cần nhiều vi khuẩn hơn gần 80 đến 100 lần để tiêu diệt 50% quần thể PL33 so với lượng vi khuẩn cần thiết để tiêu diệt 50% quần thể PL16 hoặc PL24. Mặc dù không có gì ngạc nhiên khi tôm có kích thước lớn hơn cần liều lượng vi khuẩn lớn hơn để tiêu diệt chúng, nhưng sự tăng vọt về liều lượng cần thiết giữa PL24 và PL33 là điều thú vị và có thể được sử dụng trong các quyết định về thời điểm tốt nhất để chuyển PL vào ao.
Để quản lý tốt an toàn sinh học và chăm sóc sức khỏe, tầm quan trọng của việc kiểm tra sức khỏe thường xuyên của đàn vật nuôi và khả năng nhận biết các dấu hiệu sớm của bệnh là không thể thiếu. Tạp chất sinh học, tình trạng gan tụy, hoại tử vỏ, tế bào sắc tố ruột, chất lượng đường ruột và tình trạng phân, v.v., có thể cung cấp cái nhìn sâu về sức khỏe của đàn vật nuôi trong hệ thống nuôi và thực hành chăn nuôi hiện tại. Nếu có sai lệch so với tình trạng bình thường, điều quan trọng là phải tiến hành các xét nghiệm sức khỏe liên quan. Nếu những điều này bị bỏ qua, hoặc có sự trì hoãn trong việc ra quyết định thì nó không chỉ có thể tác động đến sức khỏe và sự tồn tại của đàn mà còn có thể dẫn đến những tình huống không thể khắc phục được dù bất kể sự can thiệp tiếp theo nào. Điều quan trọng nữa là việc đánh giá sức khỏe tôm trước khi chúng được chuyển vào ao nuôi cũng rất quan trọng.
Trong những năm gần đây, vấn đề dịch bệnh do Vibrio spp. và virus đã nổi lên như những hạn chế lớn trong sản xuất nuôi trồng thủy sản. Việc sử dụng kháng sinh vào ao nuôi không chỉ tốn kém mà còn gây bất lợi vì nó có thể dẫn đến việc lựa chọn các vi khuẩn kháng thuốc hoặc có độc tính cao hơn và có thể dẫn đến dư lượng thuốc trong động vật nuôi sẵn sàng để tiêu thụ.
Probiotic là một giải pháp thay thế hợp lý cho việc sử dụng hóa chất để phòng bệnh, đặc biệt là thuốc kháng sinh và chất diệt khuẩn. Vi khuẩn có lợi cạnh tranh chất dinh dưỡng, không gian và/hoặc ức chế sự phát triển của mầm bệnh với vi khuẩn gây bệnh, có thể cho vào nước hoặc thức ăn. Các chủng probiotic này không phải là tác dụng trị bệnh nhưng sẽ làm thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp thành phần của quần thể vi sinh vật trong môi trường nuôi và đường ruột tôm. Một thông điệp quan trọng là việc tạo ra hệ vi sinh vật ổn định giúp đảm bảo an toàn sinh học là vô cùng quan trọng.
Việc sử dụng chế phẩm sinh học như một phương pháp tiếp cận vi sinh vật để quản lý môi trường và phòng chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản đã thu hút được nhiều sự chú ý. Tuy nhiên, trở ngại lớn đối với probiotic trong lĩnh vực này là sự gia tăng nhanh chóng của nhiều sản phẩm không được kiểm soát, không rõ ràng và không phù hợp đang có sẵn trên thị trường, thiếu cơ sở khoa học cho những tuyên bố của họ. Nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả bao gồm kiểm soát chất lượng không đầy đủ trong quá trình sản xuất sản phẩm và phương pháp phân phối không phù hợp, dẫn đến ô nhiễm và/hoặc chi phí xử lý quá mức không được kiểm soát đúng cách. Việc phát triển các chế phẩm sinh học phù hợp không phải là một nhiệm vụ đơn giản và đòi hỏi nghiên cứu cơ bản và thực nghiệm, thử nghiệm toàn diện, cũng như phát triển các công cụ giám sát phù hợp và sản xuất có kiểm soát.
Hiệu quả của việc ứng dụng probiotic trong môi trường nuôi hoặc thức ăn chăn nuôi phụ thuộc vào việc lựa chọn và lắng đọng các chủng cẩn thận, đạt được nồng độ cao trong nước hoặc ruột tôm, duy trì các điều kiện sản xuất được kiểm soát và tích hợp chúng một cách khôn ngoan vào các quy trình vận hành tiêu chuẩn (SOP) để tối ưu hóa chi phí- hiệu quả. Thông điệp chính là chế phẩm sinh học được lựa chọn tốt có thể hỗ trợ sự ổn định và tăng cường hệ vi sinh đường ruột cũng như môi trường trong việc cạnh tranh với các loài nguy hiểm.
Ở cấp độ sản xuất, việc quản lý vi sinh vật có thể được tạo điều kiện thuận lợi bằng cách sử dụng thiết bị tách protein để loại bỏ các chất hữu cơ hòa tan và sử dụng bộ lọc sinh học trong hệ thống tuần hoàn. Trong canh tác tổng hợp, giảm số lượng ao sản xuất và tăng diện tích dành riêng cho việc quản lý/lọc nước tại chỗ. Nói chung, tỷ lệ chất nền trên vi khuẩn thấp hơn dẫn đến sự ổn định của vi sinh vật cao hơn. Để đảm bảo các biện pháp giám sát và an toàn sinh học tại chỗ, nên đánh giá lượng vi khuẩn trong nước nuôi cũng như tại các điểm giám sát được xác định trước trong hệ thống (chẳng hạn như ống nước và ống dẫn khí) bằng cách sử dụng môi trường nuôi cấy chọn lọc. Trong trường hợp dịch bệnh bùng phát, việc xác định tác nhân gây bệnh thông qua các phương pháp nhận dạng thích hợp là rất quan trọng.
Chất lượng không khí cũng cần được xem xét trong đánh giá an toàn sinh học của chúng tôi. Sự lây lan của mầm bệnh qua không khí qua khí dung cũng thường bị bỏ qua, tuy nhiên, sự lây lan của mầm bệnh qua đường không khí không có gì đáng ngạc nhiên, đặc biệt là trong những thời điểm đầy thách thức của COVID-19 này. Sử dụng Vibrio parahaemolyticus gây bệnh AHPND làm ví dụ, một loạt thử nghiệm đã được thực hiện trong một địa điểm được cấp phép, được kiểm soát cẩn thận, có thể chứng minh rằng vi khuẩn có thể lan truyền ở khoảng cách rất xa và sự lây nhiễm từ ao bị nhiễm bệnh hoặc hồ chứa nước thải, nếu không được xử lý hợp lý, có thể gây bệnh. Vì các điểm lây nhiễm có khả năng gieo mầm bệnh mới ở các ao lân cận. Tương tự, việc sử dụng máy bơm không khí ở các nơi nuôi tôm bố mẹ, trại giống và vườn ươm cũng cần được trang bị bộ lọc không khí trên đường ống dẫn nước vào để giảm sự xâm nhập của mầm bệnh truyền qua không khí vào hệ thống nuôi.
KẾT LUẬN
Áp dụng cách tiếp cận toàn diện là một chiến lược quan trọng để phòng ngừa dịch bệnh và quản lý môi trường, vì việc ưu tiên phòng ngừa sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với các phương pháp điều trị khẩn cấp mang tính phản ứng hoặc các nỗ lực giảm thiểu thiếu hiểu biết. Một chương trình an toàn sinh học toàn diện phải bao gồm các biện pháp phòng ngừa, bao gồm việc sử dụng máy điều hòa nước, xử lý vi sinh vật, các giải pháp xử lý sinh học trong nước và đất, chất kích thích miễn dịch, giám sát mầm bệnh, đào tạo nhân viên, kiểm tra an toàn sinh học thường xuyên và thực hiện vệ sinh tốt.
Ngoài ra, cần có lựa chọn đúng các chất khử trùng, chất diệt khuẩn và hóa chất đã được phê duyệt để duy trì sức khỏe động vật và tạo môi trường chăn nuôi tối ưu. Bằng cách kết hợp các chiến lược này trong toàn bộ vòng đời nuôi trồng, giá trị gia tăng mà chúng mang lại góp phần vào sự bền vững và hứa hẹn một tương lai đầy hứa hẹn cho sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Nguồn tham khảo : https://www.inveaquaculture.com/biosecurity-along-the-shrimp-value-chain/