3.2. Trang thiết bị trại giống (các loại bể)
Khi thiết kế trại giống, cần cung cấp không gian rộng rãi cho các cơ sở nuôi dưỡng và hỗ trợ cần thiết trong hoạt động. Một trại giống hoạt động cần có các thành phần thiết yếu sau:
3.2.1 Bể trưởng thành
Hạn chế chính trong hoạt động sản xuất giống tôm sú là nguồn cung tôm giống từ tự nhiên hạn chế. Do đó, kỹ thuật cắt bỏ cuống mắt có thể được sử dụng để làm tăng thêm sự khan hiếm nguồn cung giống. Vì vậy, việc duy trì tôm bị loại bỏ trong bể nuôi trưởng thành sẽ đảm bảo nguồn cung cấp tôm cái mang thai liên tục.
Hình dạng của bể nuôi trưởng thành có thể là hình tròn, hình chữ nhật hoặc hình bầu dục. Dung tích bể có thể thay đổi từ 5 đến 40 tấn với độ sâu từ 1,2 đến 2 mét. Nếu tôm được nuôi dưới 5 tuần thì không cần chất nền đáy trong bể. Bể được lắp đặt một ống dẫn vào từ tường và một ống đứng hình trụ đôi ở giữa để thoát nước. Hệ thống này tạo điều kiện cho nước biển chảy liên tục. (Hình 1).
Hình 1. Mặt cắt ngang bể nuôi tôm bố mẹ bằng sắt 12 tấn.
3.2.2 Bể sinh sản
Bể sinh sản phải có hình tròn với đáy phẳng hoặc hình nón. Khả năng giữ nước có thể thay đổi từ 50 lít đến 1,5 tấn. Bể chứa có thể được làm bằng sợi thủy tinh, tấm mica, nhựa hoặc ván ép biển. Bể được sử dụng để tạm thời giữ cá cái mang thai cho đến khi sinh sản (Hình 2).
Hình 2. Bể sinh sản bằng sợi thủy tinh dung tích 250 lít.
3.2.3 Bể ương ấu trùng
Hai loại bể ương đang được sử dụng để nuôi ấu trùng mới nở. Tại Nhật Bản và Đài Loan, các loại xe tăng lớn hơn có sức chứa hơn 50 tấn đang được sử dụng. Tại Đông Nam Á, hầu hết các trại giống đều sử dụng bể ương ấu trùng nhỏ hơn với sức chứa khoảng 3 tấn. Các nhà điều hành trại giống gọi hệ thống nuôi ấu trùng sau này là Hệ thống ấp trứng bể nhỏ có nguồn gốc từ Phòng thí nghiệm Galveston ở Hoa Kỳ và hệ thống trước đây là Hệ thống ấp trứng bể lớn có nguồn gốc ở Nhật Bản.
3.2.3.1 Hệ thống bể nhỏ
Bể ương ấu trùng có thể có hình tròn, hình chữ nhật hoặc hình bầu dục với dung tích bể từ 0,8 đến 3 tấn. Đáy bể hình tròn có thể bằng phẳng hoặc hình nón. Bể hình chữ nhật hoặc hình bầu dục luôn có đáy phẳng. Bể hình tròn thường có đường kính 1,8 m và sâu 1,2 m với hệ thống thoát nước đứng hình trụ đôi ở giữa, có thể dùng để nước biển chảy liên tục khi ấu trùng đạt đến giai đoạn mysis hoặc sau ấu trùng. Bể hình chữ nhật có kích thước khoảng 1,5×5×1 m. Ống thoát nước được đặt ở bên cạnh bể. Ống thoát nước cũng được sử dụng để thu hoạch. Ở tất cả các loại bể, nước biển được đưa vào bể thông qua đường ống dẫn nước lắp đặt trên đỉnh bể (Hình 3).
Hình 3. Mặt cắt ngang bể nuôi ấu trùng sắt nặng 2,5 tấn
3.2.3.2 Hệ thống bể lớn
Các bồn được sử dụng có dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông có sức chứa từ 50 đến 2000 tấn trở lên (5×5×2m hoặc 20×50×2m). Các bể chứa có thể được đặt ngoài trời hoặc nếu đặt trong nhà, cần có mái che trong suốt để đón được nguồn ánh sáng mặt trời (Hình 4). Trong hệ thống bể lớn, các hoạt động sinh sản, ấp trứng và nuôi ấu trùng được thực hiện trong cùng một bể. Ấu trùng được nuôi trong 35–40 ngày (PL25-PL30).
3.2.5 Bể chứa và bể lọc nước
Bể chứa nước thường là bể nổi trên cao để phân phối nước hiệu quả bằng trọng lực cho trại giống. Dung tích bể chứa nước tối thiểu phải bằng 20% diện tích bể ương ấu trùng. Bể chứa thường được xây dựng bằng bê tông cốt thép để chịu được áp lực nước.
Khi nước đục và dơ, việc lắp đặt lưới lọc và bộ lọc cát trở nên cần thiết. Buồng lọc có thể được xây dựng liền kề với bể chứa. Có hai loại hệ thống lọc: (a) bộ lọc trọng lực trong đó nước được bơm vào buồng lọc trên bề mặt của lớp lọc và được phép đi qua vật liệu lọc bằng trọng lực đến buồng giữ nằm dưới buồng lọc ( Hình 6) và (b) bộ lọc đảo chiều (Hình 7), trong đó nước được bơm trực tiếp vào khoảng trống bên dưới buồng lọc và bơm lên qua bộ lọc lên bề mặt và vào bể chứa. Trong cả hai hệ thống, buồng lọc thường chứa cát trắng, than, sỏi hoặc cả ba loại làm vật liệu lọc. Ưu điểm của hệ thống đảo ngược là nước đi chậm qua vật liệu lọc và toàn bộ diện tích bề mặt của bộ lọc được tận dụng. Có thể dễ dàng rửa ngược bằng cách phun nước từ bề mặt bộ lọc và các mảnh vụn bên dưới dễ dàng bị cuốn trôi. Mặt khác, phương pháp lọc trọng lực cho phép nước đi qua khoang chứa nước quá nhanh và không tận dụng hết diện tích bề mặt của bộ lọc trừ khi được cung cấp ống phun nước trên toàn bộ diện tích bề mặt. Nhược điểm của hệ thống lọc trọng lực là màng lọc dễ bị tắc do cặn bẩn sau vài ngày vận hành dẫn đến nước đục và khó rửa ngược.
3.2.6 Bể nước thải
Xây ngầm và cách khu vực nuôi, nước cấp ít nhất 15 m. Trước khi xả ra môi trường nước cần được lắng, khử khuẩn và khử khuẩn. Đảm bảo việc gom thải từ tất cả các nguồn không gây ô nhiễm cho khu vực sản xuất.
Reference: FAO Training Manual
Shrimp Hatchery Design, Operation and Management
Dịch bởi: Ks. Trần Thị Thuý Loan
—–o0o—–
Contact for more information in SPF Feed for Broodstock and PL
Công ty TNHH Nguyên liệu Phúc Nguyên
Số điện thoại: 0968991118
Email: [email protected]
ĐC: 246/9B25 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 21, Quận Bình Thạnh, tp. Hồ Chí Minh.